Thống kê truy cập

Số lượng và lượt người truy cập

  • Online 6

  • Hôm nay 311

  • Tổng 17.911.240

THANH TRA QUẢNG BÌNH 30 NĂM TRƯỞNG THÀNH, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

Xem với cỡ chữ : A- A A+

                                                                                                                                                                        Nguyễn Huệ

                                                                                                                                                   Tỉnh ủy viên, Chánh Thanh tra tỉnh

1. Bối cảnh tình hình, những thuận lợi, khó khăn của ngành Thanh tra sau ngày tái lập tỉnh
Tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Bình được tái lập với tên gọi và địa giới hành chính cũ đã có trong lịch sử, đó chính là cơ hội để cán bộ và Nhân dân trong tỉnh kiến thiết lại Tỉnh nhà trong bối cảnh đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới, mở ra thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đặt ra nhiều khó khăn thách thức; trong đó có Ủy ban Thanh tra Nhà nước tỉnh Quảng Bình (nay là Thanh tra tỉnh Quảng Bình).
Về thuận lợi: Việc chia tách tỉnh đã thu gọn đầu mối các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; phạm vi, quy mô quản lý nhà nước và thực hiện thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban Thanh tra Nhà nước tỉnh cũng được thu gọn hơn, tạo điều kiện thuận lợi để ngành thật sự gần dân, sâu sát với cơ sở để thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra; khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời quần chúng; đẩy nhanh tiến độ nắm tình hình và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ sở, từ đó không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành.
Về khó khăn: Trong những năm đầu tái lập tỉnh, Ủy ban Thanh tra Nhà nước tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, số lượng cán bộ, nhân viên của ngành chỉ có 13 người; Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác rất thiếu thốn, trụ sở làm việc chưa có phải làm việc chung với nhiều cơ quan khác. Đặc biệt là điều kiện sinh hoạt, nơi ăn, chốn ở, đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức, viên chức khó khăn, chính vì vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ, tích cực của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, ngành Thanh tra Quảng Bình đã nhanh chóng khắc phục khó khăn, trung thành với lợi ích của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân, đoàn kết, sáng tạo, đổi mới phương pháp làm việc nên đã từng bước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị và chuyên môn theo quy định của pháp luật và chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh.

2. Những thành tựu của ngành sau 30 năm tái lập tỉnh
Sau ngày tái lập tỉnh đến nay, ngành Thanh tra tỉnh Quảng Bình đã không ngừng cải tiến, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động; thường xuyên bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh và của ngành, tranh thủ sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và của các cấp uỷ Đảng, chính quyền; sự chỉ đạo, hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ để xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch Thanh tra thường kỳ, đột xuất và thanh tra chuyên đề diện rộng theo yêu cầu của Thanh tra Chính phủ, của UBND tỉnh, phục vụ tốt cho công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên địa bàn tỉnh.
Trong 30 năm qua, toàn ngành Thanh tra tỉnh Quảng Bình đã tiến hành 15.751 cuộc thanh tra, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, dễ phát sinh vi phạm, tiêu cực, tham nhũng, dư luận có nhiều ý kiến bức xúc, như quản lý, sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản, quản lý tài chính, ngân sách, thuế, bảo hiểm, ngân hàng, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; chính sách văn hóa - xã hội; an ninh quốc phòng, thực hiện các chương trình 327, Chương trình 135; xây dựng các công trình giao thông nông thôn, thuỷ lợi, trường học, nâng cấp bệnh viện và các trạm y tế tuyến huyện, trung tâm cụm xã, tuyển dụng công chức, viên chức... Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị thu hồi cho Ngân sách Nhà nước với số tiền 216,84 tỷ đồng, 5.096 tấn lương thực, 1.108,87 ha đất, 1.149,44 m3 gỗ, 20.600 kg xăng dầu; trả lại quyền lợi chính đáng cho người dân 5,91 tỷ đồng; 2.721 m2 đất. Đã thu hồi nộp ngân sách Nhà nước 167,09 tỷ đồng; đạt tỷ lệ 77,1%.
Công tác tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến tích cực. Đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, điều hành của chính quyền và vai trò tham mưu đắc lực của ngành Thanh tra để tập trung giải quyết được 17.888 đơn (11.895 đơn khiếu nại, 6.033 đơn tố cáo), đạt tỷ lệ bình quân 97,1%. Qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã kiến nghị xử lý hành chính 184 tập thể và 2.031 cá nhân có vi phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng ngày càng được chú trọng, đi vào kỷ cương, nề nếp tạo được lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; kịp thời chấn chỉnh, xử lý các vi phạm, tiêu cực, tham nhũng. Thông qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng đã phát hiện và kiến nghị khắc phục nhiều bất cập, sơ hở trong thể chế, chính sách hiện hành, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
Đội ngũ cán bộ thanh tra của tỉnh ngày càng trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, toàn ngành có 03 Thanh tra viên cao cấp, 38 Thanh tra viên chính, 77 Thanh tra viên và 100 công chức thanh tra chuyên ngành. Trụ sở làm việc cũng như trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh tra đã được đầu tư nâng cấp từng bước đáp ứng yêu cầu công tác của ngành. Cán bộ ngành Thanh tra được đào tạo cơ bản cả về lý luận chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn; thường xuyên đổi mới cách nghĩ, cách làm; năng động, sáng tạo, đoàn kết nhất trí nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Kết quả thể hiện qua từng thời kỳ như sau:
- Thời kỳ 1989 đến 1999: Năm 1990, Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh Thanh tra; năm 1991 ban hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân; năm 1998 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh chống tham nhũng, cũng trong năm này Quốc hội khoá X thông qua Luật khiếu nại, tố cáo thay thế Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991. Đây là những văn bản pháp lý có hiệu lực cao của Nhà nước về công tác thanh tra; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của hệ thống thanh tra nhà nước từ Trung ương đến địa phương, xác định rõ vị trí của công tác thanh tra, đồng thời tăng cường hơn nữa công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phát huy quyền làm chủ của công dân, đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tham nhũng.
Toàn ngành Thanh tra đã triển khai 1.422 cuộc thanh tra; tham mưu giải quyết 3.739/3.936 đơn khiếu nại, tố cáo (2.171 đơn khiếu nại, 1.568 đơn tố cáo) đạt tỷ lệ 95%. Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện các sai phạm về kinh tế và kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước số tiền 49,29 tỷ đồng, 5.096 tấn lương thực, 48,4 ha đất, 972 m3 gỗ, 20.600 kg xăng dầu. Đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước 37,1 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 75,2%. Kiến nghị xử lý hành chính 627 người (gồm nhiều hình thức như: Buộc thôi việc, cách chức, miễn nhiệm, cảnh cáo, khiển trách).
- Thời kỳ 2000 đến 2009: Thời kỳ này việc xây dựng hệ thống pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng được tăng cường. Năm 2004, Quốc hội khoá XI thông qua Luật Thanh tra thay thế Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, theo đó, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của ngành Thanh tra được quy định gồm cơ quan thanh tra theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực. Năm 2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI thông qua Luật phòng, chống tham nhũng; ngày 21/6/2006 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng; ngày 31/10/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập Cục chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ. Những chủ trương, chính sách, pháp luật trên đây trên thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc ngăn chặn, đẩy lùi và bài trừ tham nhũng, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới.
Toàn ngành Thanh tra đã triển khai 8.565 cuộc thanh tra; đã tham mưu giải quyết 7.401/7.669 đơn khiếu nại, tố cáo (5.180 đơn khiếu nại, 2.221 đơn tố cáo) đạt tỷ lệ 96,5%. Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện các sai phạm về kinh tế và kiến nghị thu hồi nộp Ngân sách Nhà nước với số tiền 55,63 tỷ đồng, 857,38 ha đất, trả lại cho công dân 172,8 triệu đồng. Đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước: 42,6 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 76,6%. Kiến nghị xử lý hành chính 884 cá nhân vi phạm pháp luật.
Ngành đã chủ động tham mưu thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng; gắn công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo với đấu tranh phòng, chống tham nhũng để phát hiện và kiến nghị xử lý nghiêm minh những vụ việc tham nhũng; chuyển hồ sơ của 12 đối tượng có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan Cảnh sát điều tra cùng cấp để điều tra, làm rõ.
- Thời kỳ 2010 đến 2019: Thời kỳ này, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các luật như Luật Thanh tra (sửa đổi năm 2010); Luật Khiếu nại (năm 2011); Luật Tố cáo (năm 2011); Luật Tiếp công dân (năm 2013); Luật Tố cáo (sửa đổi năm 2018); Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi năm 2018) nhằm khắc phục những bất cập trong quá trình thực hiện và đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Toàn ngành Thanh tra đã triển khai 5.764 cuộc thanh tra; đã tham mưu giải quyết 6.748/6.809 đơn khiếu nại, tố cáo (4.504 đơn khiếu nại, 2.244 đơn tố cáo) đạt tỷ lệ 99,1%. Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện các sai phạm về kinh tế và kiến nghị thu hồi nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 111,92 tỷ đồng; 203,09 ha đất; trả lại cho công dân 5,74 tỷ đồng và 2.721 m2 đất. Đã thu hồi nộp Ngân sách Nhà nước 87,39 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 78,1%. Kiến nghị xử lý hành chính 184 tập thể và 520 cá nhân có vi phạm; chuyển hồ sơ hàng chục vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan Cảnh sát điều tra cùng cấp để điều tra, làm rõ.
Công tác tiếp công dân trong những năm gần đây các đươc coi trọng; Từ khi Luật tiếp công dân có hiệu lực thi hành, các cơ quan hành chính Nhà nư¬¬¬¬ớc trong tỉnh đã tiếp 6.114 lư¬ợt công dân (có 405 lượt đoàn đông người), trong đó: Tại Trụ sở tiếp công dân tỉnh tiếp 619 lư¬¬ợt; Thanh tra tỉnh và các sở, ngành, huyện, thành phố, thị xã tiếp 5.495 lư¬¬ợt.
Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Thanh tra tỉnh Quảng Bình qua các thời kỳ cho thấy: Chất lượng các cuộc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo ngày càng được nâng lên, thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả ngày càng cao của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh. Quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân được quan tâm, chú trọng nhiều hơn. Công tác phòng chống tham nhũng đã có chuyển biến tích cực qua từng giai đoạn. Các biện pháp phòng, chống tham nhũng được triển khai đồng bộ, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
Thanh tra tỉnh Quảng Bình cũng đã tích cực tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành liên quan đến công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo vào thời gian tổ chức Đại hội đảng các cấp, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp… Tham mưu tổ chức tổng kết và tham gia góp ý đối với các Luật và văn bản pháp luật chuyên ngành, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ngành Thanh tra. Riêng trong năm 2018, Thanh tra tỉnh đã tham mưu cho Ban Cán sự đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh trình Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 31/5/2018 về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực pháp luật.
30 năm qua là một quá trình không ngừng trưởng thành và phát triển của ngành Thanh tra tỉnh Quảng Bình. Thanh tra tỉnh, Thanh tra các sở, Ban, ngành, Thanh tra các huyện, thành phố, thị xã và các thế hệ cán bộ thanh tra đã đóng góp tích cực vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh nhà phát triển.
3. Một số hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song hoạt động của ngành Thanh tra trong 30 năm qua vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: Thanh tra của một số sở, ngành, địa phương xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra còn chung chung, chưa thật sự trọng tâm, trọng điểm, chưa bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị và hướng dẫn của Thanh tra cấp trên. Một số cuộc thanh tra triển khai chậm, thời gian kéo dài, chất lượng chưa cao, phát hiện các sai phạm và hành vi tham ô, tham nhũng chưa nhiều, xử lý thu hồi về kinh tế chưa triệt để; một số cơ quan, đơn vị xử lý những cá nhân, tập thể vi phạm chưa nghiêm túc.
Có vụ việc giải quyết còn kéo dài thời gian; giải quyết chưa dứt điểm dẫn đến tình trạng tái khiếu, tái tố; một số vụ đã có Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được chấp hành nghiêm túc.
Công tác tự phát hiện tham nhũng trong nội bộ vẫn còn nhiều bất cập, việc nắm bắt tình hình tham nhũng gặp nhiều khó khăn; việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai bản kê khai tài sản thu nhập, còn hình thức, chưa có tác dụng phòng ngừa tham nhũng.
4. Nguyên nhân của hạn chế
4.1. Nguyên nhân khách quan
- Hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, dẫn đến gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật khi thực hiện thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Một số quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng còn có nội dung không rõ ràng, thiếu đồng bộ và có sự mâu thuẫn giữa các văn bản, nên khi giải quyết gặp vướng mắc trong áp dụng pháp luật.
Một số vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo do tính chất phức tạp phải xin ý kiến của Thanh tra Chính phủ, các Bộ, ngành chức năng liên quan, nên thời gian giải quyết chậm so với quy định.
- Hồ sơ quản lý của các cơ quan nhà nước (sổ địa chính, bản đồ địa chính, lý lịch cán bộ, lý lịch quân nhân và những người tham gia kháng chiến…) do hoàn cảnh chiến tranh và thiên tai, tách, nhập địa giới hành chính, cán bộ thay đổi qua các thời kỳ… nên lưu trữ không đầy đủ, khi phát sinh khiếu nại không đủ tài liệu để xem xét, đối chứng và kết luận giải quyết.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
Một số cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, nhất là người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị chưa thực sự quan tâm đến công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; chưa coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cấp ủy, của Thủ trưởng cơ quan nhà nước các cấp; công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra chưa thực sự được quan tâm đúng mức; biên chế còn thiếu, điều kiện phương tiện, trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu công tác.
Trưởng một số Đoàn thanh tra, xác minh khiếu nại, tố cáo còn hạn chế khả năng tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành; Kết luận thanh tra, kiến nghị xử lý còn chung chung, chưa rõ người, rõ tội, vì vậy khó thực hiện, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
Trình độ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ quản lý, cán bộ thanh tra, thanh tra viên chưa thật sự đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong các tổ chức thanh tra có mặt còn hạn chế. Điều kiện phương tiện phục vụ tác nghiệp chưa đảm bảo theo yêu cầu của công việc, vì vậy hạn chế một phần về chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ được giao;
- Công tác tổ chức bộ máy và cán bộ, công chức của ngành còn nhiều bất cập; một số cán bộ thanh tra các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố, thị xã đã được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành nhưng địa phương, đơn vị điều động, luân chuyển đến đơn vị khác, đảm nhận công tác khác, phải tiếp nhận cán bộ mới chưa có kinh nghiệm, nghiệp vụ chuyên ngành thay thế; phải tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng làm hạn chế chất lượng, hiệu quả hoạt động thanh tra.
- Về phía công dân nhiều trường hợp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; gửi đơn thư tràn lan, không đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Cá biệt, một số vụ việc có dấu hiệu công dân bị một số phần tử xấu kích động, lôi kéo đông người nhằm gây áp lực với chính quyền các cấp; một số vụ việc khiếu nại không đạt mục đích chuyển sang tố cáo.
5. Đánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm
Sau 30 năm tái lập tỉnh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành đảng bộ Tỉnh, HĐND, UBND tỉnh, sự hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ, tích cực của các cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, ngành Thanh tra Quảng Bình đã từng bước trưởng thành và khẳng định Thanh tra là một bộ phận thiết yếu và không thể thiếu trong bộ máy hành chính Nhà nước, phục vụ đắc lực sự quản lý, điều hành của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, của các sở, ngành.
Kết quả nhiều cuộc thanh tra chuyên đề về kinh tế - xã hội và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã góp phần quan trọng vào việc khắc phục, ngăn chặn hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong các cơ quan nhà nước; đồng thời ngành Thanh tra cũng đã phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong việc ban hành các cơ chế, chính sách để kiến nghị với Tỉnh, với Trung ương điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các cơ chế, chính sách, pháp luật, đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới đất nước.
Các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức ngành Thanh tra luôn giữ vững phẩm chất chính trị, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ, trung thành, gương mẫu, liêm khiết, khách quan, công tâm trong công tác, hoàn thành mọi nhiệm vụ của ngành về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ kỷ cương, kỷ luật, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân; góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Những kết quả mà ngành Thanh tra đạt được trong 30 năm qua đã khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp lớn lao của ngành trong việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh qua từng thời kỳ.
Với thành tích đạt được, nhiều năm liền Thanh tra tỉnh Quảng Bình được xét tặng là đơn vị xuất sắc của Ngành Thanh tra; năm 1994 được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng Ba; năm 2005 được tặng Huân chương lao động hạng Nhì; nhiều tập thể và cá nhân được tặng Cờ Thi đua xuất sắc của Tỉnh, Bộ, Ngành; được tặng Bằng khen của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh; của Thanh tra Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ.
Từ thực tiễn hoạt động của ngành 30 năm qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Ngành phải biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của cấp ủy Đảng và lãnh đạo các cấp, các ngành, của Thanh tra Chính phủ.
Thứ hai, phát huy trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, Thủ trưởng các tổ chức thanh tra trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo; từng bước đổi mới công tác quản lý, điều hành.
Thứ ba, thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, công chức ngành Thanh tra. Xây dựng và nâng cao trình độ nhận thức về văn hoá thanh tra, đạo đức của cán bộ thanh tra trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, vị trí, vai trò của công tác thanh tra.
Thứ tư, cần tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thành phố, thị xã, các Ban của Đảng, cơ quan tư pháp trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành.
Thứ năm, thường xuyên quan tâm nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và hiệu quả xử lý sau thanh tra. Nâng cao ý thức chấp hành kết luận thanh tra, quyết định xử lý của đối tượng thanh tra; Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan hữu quan trong việc xử lý sau thanh tra.
Thứ sáu, coi trọng công tác tổng kết rút kinh nghiệm, nghiên cứu các đề tài khoa học, các chuyên đề về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
6. Định hướng mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, giải pháp cơ bản của ngành Thanh tra đến 2030, tầm nhìn đến 2035
6.1. Bối cảnh tình hình trong những năm tới, xác định thuận lợi, khó khăn, thách thức đối với hoạt động của Ngành
Trong những năm tới, trong bối cảnh chung của đất nước hội nhập quốc tế sâu, rộng, hợp tác đa chiều, đa phương trong thời đại công nghiệp 4.0. Kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, của tỉnh ta nói riêng từng bước phát triển toàn diện và có những đột phá. Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong tiến trình phát triển đất nước phải xác lập địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; xây dựng ngành Thanh tra, đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn, thách thức, nhất là khi công tác quản lý nhà nước, thực thi pháp luật ở một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế, bất cập, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là khiếu kiện đông người, vượt cấp lên Trung ương. Tình trạng công dân khiếu nại liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ do sự cố ô nhiễm môi trường biển, nhất là khiếu nại tập thể, đông người với sự kích động, xúi giục của các thế lực thù địch vẫn còn khá phức tạp tại nhiều địa bàn. Nhiều phần tử lợi dụng các trang mạng xã hội để tố cáo, vu khống cán bộ, gửi đơn thư tràn lan làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội… Đây là những thách thức lớn đối với hoạt động của ngành trong thời gian tới.
6.2. Định hướng mục tiêu
Bám sát mục tiêu Chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến 2035, Chiến lược ngành Thanh tra đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 của Thanh tra Chính phủ được Thủ tướng phê duyệt. Mục tiêu phát triển ngành Thanh tra tỉnh Quảng Bình là nâng cao năng lực, hiệu lực pháp lý, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Ngành, từng bước xây dựng ngành Thanh tra và đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra chuyên nghiệp, hiện đại, uy tín, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xứng đáng là công cụ thiết yếu, hữu hiệu của Đảng, Nhà nước của nhân dân trong hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Ngành Thanh tra đảm bảo thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, có đủ thẩm quyền để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao…
Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật. Phát huy trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu trong thực hiện tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; giải quyết dứt điểm các đơn, thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các biện pháp phòng ngừa, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy Nhà nước; công khai, minh bạch trong xây dựng cơ bản, quản lý dự án đầu tư, tài chính, ngân sách nhà nước, quản lý và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, quản lý và sử dụng đất đai, mua sắm tài sản công, công tác cán bộ. Xử lý nghiêm, đúng pháp luật hành vi tham nhũng, lãng phí.
6.3. Định hướng các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá
- Trong công tác thanh tra cần bám sát kế hoạch và sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, tập trung vào những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực, nhằm phát hiện, chấn chỉnh những sơ hở, bất cập trong quản lý, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, tiêu cực, cũng như kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách cho phù hợp. Chú ý nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đảm bảo kết luận thanh tra chính xác, khách quan, kịp thời, đúng pháp luật.
- Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cần thực hiện nghiêm Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của Bộ Chính trị, Luật đất đai, Luật khiếu nại, Luật tố cáo (sửa đổi), Luật tiếp công dân và các nghị định hướng dẫn thi hành, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Văn bản số 202/TB-VPCP ngày 31/5/2018 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị về công tác giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài; văn bản số 391-CV/TU ngày 10/11/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thông báo số 255-TB/VPTU ngày 14/8/2018 của Văn phòng Tỉnh ủy Thông báo kết luận của đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tại buổi làm việc với Ban Nội chính Tỉnh ủy, Thanh tra tỉnh và các đơn vị có liên quan về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và thực hiện đồng bộ các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, kéo dài.
- Trong công tác phòng, chống tham nhũng cần tham mưu cho cấp ủy, chính quyền có các giải pháp đồng bộ, tiến hành quyết liệt hơn để tạo bước chuyển biến rõ rệt về đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng. Đẩy mạnh phát hiện tham nhũng và thực hiện các biện pháp kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng. Quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả Kết luận số 10-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
- Tăng cường thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra chuyên đề diện rộng; Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 31/5/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện kết luận thanh tra, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo đã có hiệu lực pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
6.4. Nhóm giải pháp cơ bản
Một là, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu các tổ chức thanh tra. Đổi mới tư duy trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra theo hướng đề cao tính hiệu quả, tính chịu trách nhiệm trong hoạt động, coi đây là yếu tố then chốt, quyết định trong hoạt động của mỗi tổ chức thanh tra.
Hai là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra. Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra chuyên nghiệp, hiện đại vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp quan trọng trong giai đoạn hiện nay; đảm bảo đủ số lượng, coi trọng chất lượng. Hoàn thiện, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Quy tắc ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Thanh tra; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thanh tra.
Ba là, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của Trưởng đoàn thanh tra, xác minh khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp công tác giữa các tổ chức thanh tra; giữa cơ quan Thanh tra, Điều tra, Kiểm toán và Kiểm tra Đảng các cấp.
Năm là, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thanh tra.
Để thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp trên đây, ngành Thanh tra cần tập trung củng cố bộ máy, kiện toàn đội ngũ cán bộ, chấn chỉnh lề lối làm việc, tăng cường đoàn kết, thống nhất; kiên quyết làm trong sạch, lành mạnh đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành. Đặc biệt, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên, bảo đảm thật sự trong sạch, có bản lĩnh, dũng khí, thực sự vì lợi ích của Đảng, nhà nước và nhân dân.
Tại buổi làm việc với Thanh tra Chính phủ ngày 16/3/2015, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Công tác thanh tra, trong đó Thanh tra Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ pháp luật, bảo vệ cơ chế chính sách, chống lại tiêu cực, tham nhũng, bảo vệ lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nhưng đây cũng là lĩnh vực vô cùng phức tạp vì liên quan đến con người, đến cơ chế, chính sách.
Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi ngành Thanh tra tỉnh nhà cần phải đổi mới toàn diện, được tiến hành đồng bộ trên các phương diện: Tổ chức, bộ máy, phương thức hoạt động và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra đáp ứng được yêu cầu công tác thanh tra trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

 Đồng chí Trần Công Thuật- Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành thanh tra năm 2019.

                                                                                                

 

Triển khai kế hoạch hoạt động khối thi đua các ngành nội chính

 do Thanh tra tỉnh Trưởng khối

Triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia

 về phòng, chống tham nhũng.